Đánh giá sức chịu tải và phân vùng xả nước thải vào nguồn tiếp nhận sông Ba Lai tỉnh Bến Tre
Ngày 21/06/2013, Hội đồng KH&CN tỉnh Bến Tre tổ chức nghiệm thu đề tài khoa học: “Nghiên cứu đánh giá sức chịu tải và phân vùng xả nước thải vào nguồn tiếp nhận sông Ba Lai tỉnh Bến Tre”. Đề tài do Phó Giáo sư-tiến sỹ Lê Thanh Hải và nhóm nghiên cứu Viện Môi trường và Tài nguyên thực hiện.
Sông Ba Lai là con sông nằm trọn vẹn trong địa phận của tình Bến Tre có chiều dài 69 km chảy từ xã Tân Phú huyện Châu Thành đến cửa sông Ba Lai. Từ năm 2002 đến nay cống đập Ba Lai đi vào hoạt động đã phát huy tác dụng làm ngọt hóa phần đất phía Bắc Bến Tre. Tuy nhiên, việc ra đời của cống đập Ba Lai đã có tác động làm thay đổi chế độ thủy văn, biến con sông thành lòng hồ, dòng chảy giảm đi, gia tăng chế độ bồi lắng… Trong các năm vừa qua hoạt động kinh tế-xã hội ở hai bên bờ sông Ba Lai vẫn không ngừng phát triển, nhiều nguồn thải mới được phát sinh mà không được kiểm soát một cách chặt chẽ điều này góp phần làm giảm khả năng pha loãng và tự làm sạch của các nguồn nước, góp phần làm cho ô nhiễm cục bộ gia tăng trên dòng sông này. Vì vậy, đề tài được thực hiện nhằm đánh giá sức chịu tải của dòng sông và phân vùng xả thải vào nguồn tiếp nhận sông Ba Lai nhằm phục vụ cho công tác quản lý tài nguyên nước của địa phương; phục vụ quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Đề tài được thực hiện với mục tiêu đánh giá sức chịu tải của dòng sông phân vùng xả thải nước thải vào nguồn tiếp nhận sông Ba Lai; đề xuất các giải pháp quản lý và bảo vệ môi trường phù hợp cho lưu vực sông Ba Lai của tỉnh. Tác giả và nhóm nghiên cứu đã nghiên cứu thực hiện trên 07 nội dung chính của đề tài và có những đánh giá như sau:
- Nguồn nước tại một số điểm quan trắc trên sông Ba Lai bị ô nhiễm sắt, chất lơ lửng và Coliform. Đồng thời các thông số như H-NH4+, N-NO3-, BOD5 tại một số điểm vượt mức cho phép.
- Hiện tại, mỗi ngày hệ thống lòng hồ sông Ba Lai phải tiếp nhận khoảng 5.444 m3 nước thải sinh hoạt, 1.760 m3 nước thải chăn nuôi, 17.000.000 m3 nước thải nuôi trồng thủy sản, 651 m3 nước thải làng nghề và hàng ngàn m3 nước thải từ các hoạt động khác… Dự báo đến năm 2020 lưu lượng nước thải sinh hoạt phát sinh từ khu vực nghiên cứu sẽ lên đến 10.466 m3/ngày đêm; nước thải chăn nuôi lên đến 2.086,03 m3/ngày đêm và nước thải nuôi trồng thủy sản vào khoảng 12.727.765 m3 /ngày đêm.
-Mức độ phát thải các chất ô nhiễm ra sông Ba Lai là rất đáng kể và vượt quá khả năng tiếp nhận của sông.
-Dựa trên kết quả đánh giá khả năng tiếp nhận nước thải của sông Ba Lai nhóm thực hiện chia thành bốn vùng: vùng có nguy cơ ô nhiễm rất cao, vùng có nguy cơ ô nhiễm cao, vùng có nguy cơ ô nhiễm trung bình, vùng có nguy cơ ô nhiễm thấp. Đoạn sông có khả năng ô nhiễm cao nhất thuộc địa bàn xã An Hóa huyện Chầu Thành. Đoạn sông có khả năng pha loãng và chịu tải nước thải tốt là đoạn trong vùng lòng hồ sông Ba Lai và đoạn gần cửa sông Ba Lai.
Trên kết quả nghiên cứu nhóm tác giả đưa ra đề xuất nhằm quản lý và bảo vệ môi trường nước mặt sông Ba Lai tỉnh Bến Tre như sau: các giải pháp cụ thể cho các vùng trong khu vực nghiên cứu; giải pháp nhằm nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của cộng đồng về bảo vệ môi trường và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên; giải pháp nâng cao năng lực và hiệu quả thực thi quản lý nhà nước trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường…
Các thành viên Hội đồng KH&CN đánh giá đề tài đã hoàn thành mục tiêu, sản phẩm và đúng tiến độ. Phương pháp nghiên cứu hợp lý, đề tài có giá trị khoa học và giá trị ứng dụng vào thực tiễn cao. Hội đồng đánh giá đề tài đạt loại khá.
Tường Khanh
Sở Khoa học và Công nghệ